Những tài liệu văn bản ghi chép về các Thánh Mẫu thường xuất phát từ thần thoại, huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng ngược lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần tích, thần phả. Các truyện kể dân gian về 3 vị Thánh Mẫu: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải lưu truyền trong dân gian khá phong phú, sau này một số được ghi chép lại trong các sách cổ như Việt điện u linh, ngoài ra còn có các truyện kể dân gian khác về các vị nữ thần được các sách sau này tập hợp và ghi chép lại.
Cùng với việc sưu tầm, một số tác giả là các trí thức nho học thời phong kiến đã tiến hành ghi chép lại và sáng tác thêm những huyền thoại, truyền thuyết đã được sưu tầm ghi chép từ trước và thậm chí là sáng tác thêm cho phù hợp tư tưởng lễ giáo thời kỳ đó. Từ thời Hậu Lê, đã có những việc như vậy nhằm phục vụ cho việc phong thần của các vị vua với hai trường hợp điển hình với các ghi chép - sáng tác về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền bắc Việt Nam của Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị Điểm và trường hợp thứ hai là về Thiên Y A Na ở nam Trung Bộ Việt Nam của Phan Thanh Giản. Cũng có một nguồn tư liệu khác được dân gian sáng tác từ các huyền thoại, truyền thuyết và thậm chí là các truyện, thơ về các Thánh Mẫu. Đó là các bài hát văn ở Mẫu Tam phủ Tứ phủ với phần cốt lõi của các bài hát văn là lai lịch, sự tích các vị thần, nhất là các Thánh Mẫu.
Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nữ thần, Thánh Mẫu (Mẫu Thần) ở Việt Nam đều là các công trình của các nhà khoa học người Pháp như Parmenties, Maspero, Durand, Simond và kế tiếp là các nhà khoa học người Việt như Nguyễn Văn Huyên, Đào Thái Bình,...
Từ thập niên 1990, nhất là sau hội thảo quốc gia về Thánh Mẫu do Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu (Hà Nội), không khí học thuật liên quan tới tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và tín ngưỡng dân gian nói chung diễn ra sôi động, hàng loạt tác phẩm, công trình nghiên cứu đã được công bố.
Từ các nghiên cứu tổng hợp, các nhà nghiên cứu đã hệ thống hóa được việc tôn thờ Mẫu ở Việt Nam trên cả phương diện đồng đại và lịch đại. Về phương diện lịch đại, tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được hình thành và phát triển trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa (Mẫu Tam phủ, Tứ phủ). Tới thế kỷ XVII-XVIII, sau khi tín ngưỡng Mẫu Tam phủ Tứ phủ đã được hình thành và phát triển thì tín ngưỡng này lại được Tam phủ, Tứ phủ hóa tục thờ Nữ thần, Mẫu thần.
Vào hồi 17h15 giờ địa phương (21h15 giờ Việt Nam) ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” tại 21 tỉnh đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Cùng với sự tiến bộ xã hội và nhân đạo phát triển, sau này người ta phối thờ thêm các vị thần linh là nhân thần có công khai hoang mở đất, vị anh hùng dân tộc đấu trạnh chống giặc ngoại xâm, các vị thần linh bản cảnh địa phương có công truyền nghề, các tiên hiền,.... (Có cả Nam Thần linh). Những vị này được thờ tại đền riêng hoặc phối thờ vào cùng với các đền, điện thờ Mẫu trên khắp cả nước, hình thành nên hệ thống thần linh bản địa được thờ phụng rộng rãi gắn liền với cuộc sống nhân sinh nước Việt chứ không còn thuần túy thờ Nữ Thần, Thánh Mẫu nữa. Đến nay tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được gọi chung là Đạo Mẫu Việt Nam, bản chất là thờ Tam phủ, Tứ Phủ (Tam phủ công đồng - Tứ Phủ Vạn Linh) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh vẫn là thần chủ. Tam phủ công đồng, Tứ phủ vạn linh ở đây phải hiểu là:
- Tam phủ: Là Tam phủ Tiên thánh thuộc tín ngưỡng Nam Thần, đứng đầu các phủ gồm:
- Thiên phủ: Ngọc Hoàng Thượng Đế
- Địa Phủ: Bắc âm Phong Đô nguyên thiên Đại Đế (Diêm Vương)
- Thủy Phủ: Phù Tang Cam Lâm Đại Đế (Bát Hải Long Vương)
Như vậy, Tam Phủ Công đồng ở đây là các nam thần, thánh được suy tôn, sắc phong được thờ tại các đình, đền, miếu, chùa. "Công Đồng" đã nói lên một điều là nhiều thánh, nhưng trong cùng một hệ thống tín ngưỡng.
Ví dụ: Công đồng bắc Lệ là thờ 3 vị cùng tín ngưỡng Thanh Sơn Nhất Phái; Công Đồng Trần Triều thì cùng thờ các thần, thánh trong tín ngưỡng thờ Trần Triều,... - Tứ phủ: Là Tứ phủ Thánh Mẫu thuộc tín ngưỡng nữ thần, đứng đầu gồm:
- Thiên phủ: Thánh mẫu Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa (trong văn thỉnh mẫu vẫn còn lưu truyền: "Đệ Nhất thiên tiên Thanh Vân Công Chúa Thượng Thiên giáng trần")
- Địa Phủ: Thánh mẫu Liễu Hạnh
- Nhạc Phủ: Thánh Mẫu Lê Mại Đại Vương
- Thủy Phủ: Thánh Mẫu Động Đình Lân Nữ Công Chúa (Xích Lân Long Nữ Ngọc Bạch Hồ Trung Thủy Cung Công Chúa)
Tứ phủ vạn linh là bao gồm các thánh nữ được suy tôn, hay sắc phong được thờ tại các đình, đền, miếu, phủ, chùa. "Vạn Linh" đã nói lên một điều rất nhiều, hỗn hợp không phân biệt giáo phái tín ngưỡng của các dân tộc (mường, tày, mán,...).
Ngày nay, trong khi thực hành Tín ngưỡng thờ mẫu đã làm lu mờ đi các khái niệm, các pháp sự của tín ngưỡng nam thần trong một thời gian dài, đây có thể là một hệ lụy của việc đánh tráo khái niệm, đánh đồng khái niệm hoặc mập mờ các khái niệm các quy tắc trong các tín ngưỡng riêng biệt.
Này nay, xuất hiện khái niệm thánh nam Nhạc phủ - đây là khái niệm ảnh hưởng của tính ngưỡng thờ Mẫu. Trong tín ngưỡng thờ thần Việt Nam có ảnh hưởng của Đạo giáo thì "Nhạc" ở đây chỉ có Ngũ Nhạc Thần Vương - là 5 ông cai quản 5 ngọn núi thiêng của Trung Quốc, không có khái niệm Nhạc Phủ.
Trong hệ thống bài viết của Linh Thông sẽ cố gắng phân tích, làm sáng tỏ những ngôi vị thánh, các khái niệm và ý nghĩa từng phần, mong rằng góp phần nhỏ vào việc thờ tín ngưỡng được chu toàn hơn.
Về phương diện đồng đại, đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào phương Nam trong quá trình nam tiến. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã giao thoa, tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Chăm, người Khmer, người Lào từ đó tạo nên các dạng thức địa phương của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam ở ba miền Bắc bộ, Trung bộ và cả Nam bộ.
Thờ Mẫu ở Miền Bắc
Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu thần tương ứng thời kỷ từ thế kỷ XV trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Mẫu Âu Cơ, Quốc Mẫu Tây Thiên, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương, Đinh Triều Quốc Mẫu...
Từ khoảng thế kỷ XV trở đi, hình thức thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện các nhân vật như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Cô Đôi Thượng Ngàn,... với các nghi thức một phần ảnh hưởng từ Đạo giáo.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, một hình thức thờ cúng người mẹ hóa thân ở các miền trời, sông nước, rừng núi, hình thành và phát triển mạnh mẽ, các vị thần trong điện thần tam phủ có nguồn gốc không chỉ của người Kinh, mà còn của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam như người Mường, Tày, Nùng, Dao, v.v. Về cơ bản Đạo Mẫu tự có một hệ thống thần linh đông đảo trong đó chủ yếu là phúc thần. Các tín đồ thường chỉ tập trung thờ tự và sinh hoạt tín ngưỡng xoay quanh các vị này. Chủ chốt và cao nhất là Ngọc Hoàng Thượng đế, Tam Tòa Thánh Mẫu, rồi thấp dần là các hàng Quan lớn, Chầu bà, Ông Hoàng, Cô và Cậu, Ngũ Hổ và Ông Lốt,... và có cả các thần linh địa phương (Thánh Bản Cảnh/ Thánh bản tỉnh). Danh sách các vị thần gồm:
- Ngọc Hoàng Thượng đế là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu, có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc tín ngưỡng thờ Mẫu. Đứng hai bên ngài là Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu. Tuy nhiên, cũng có nơi không có ban thờ Ngọc Hoàng Thượng đế.
- Tam tòa thánh mẫu: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải. Riêng trong tín ngưỡng người Mường thì lại thờ Tam vị chúa Mường: Đệ nhất Lê Mại Đại Vương (Diệu Tín Thiền Sư), Đệ Nhị Diệu Tín Chân Như, Đệ Tam Diệu Nghĩa Thiền Lâm.
- Hàng Quan: Quan đệ nhất thượng Thiên, Quan đệ nhị giám sát thượng ngàn, Quan đệ Tam Thoải Cung, Quan đệ Tứ khâm sai, Quan đệ ngũ Tuần tranh, Ngoài ra còn có Quan lớn Điều Thất, Quan Hoàng Triệu Tường, Quan lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm. Các vị Quan hay được hầu là Quan lớn đệ nhị, Quan lớn đệ Tam, Quan lớn đệ Ngũ.
- Hàng Chầu bà: Chầu đệ nhất thượng thiên, Chầu đệ nhị thượng ngàn, Chầu đệ tam thoải cung, Chầu đệ tứ khâm sai, Chầu Năm Suối Lân, Chầu Lục cung nương, Chầu Bảy Kim Giao (Chầu Bảy Tân La), Chầu Tám Bát Nàn, Chầu Chín Cửu Tỉnh, Chầu Mười Đồng Mỏ, Chầu Bé Bắc Lệ, Chầu Bà Thủy Cung. Các vị Chầu phổ biến hay hầu bóng gồm Chầu đệ nhị, Chầu Đệ Tứ (thường Thủ đền, Thủ điện hầu),Chầu Năm Chầu Lục, Chầu Bát, Chầu Mười, Chầu bé. Ngoài ra còn một số vị Chầu khác cũng có hát văn, nhưng về cơ bản ít được hầu bóng hoặc là chỉ ở một địa phương hoặc vào ngày tiệc Thánh.
- Hàng ông Hoàng: Hoàng Cả, Hoàng Đôi, Hoàng Bơ Thoải Cung, Hoàng Tư, Hoàng Năm, Hoàng Lục Thanh Hà, Hoàng Bảy Bảo Hà, Hoàng tám Bát Nùng, Hoàng Chín Cờn Môn, Hoàng Mười Nghệ An. Các giá Hoàng thường ngự đồng là Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười
- Hàng Cô: Cô Nhất Thượng Thiên, Cô đôi thượng ngàn, cô Bơ thoải cung, cô Tư Tây Hồ, cô Năm Suối Lân, cô Sáu Lục Cung, cô Bảy Kim Giao (Cô Bảy Tân La), cô Tám đồi chè, Cô Chín Sòng Sơn, Cô Mười Mỏ Ba, Hội đồng các cô Bé: cô Bé thượng ngàn, cô Bé Đông Cuông, cô Bé Suối Ngang,... Các cô hay ngự đồng là Cô Đôi Thượng Ngàn, Cô Bơ Thủy Cung, cô Chín Đền Sòng, Cô Bé Thượng Ngàn
- Hàng cậu: Cậu Cả, Cậu Đôi, cậu Bơ, Cậu hoàng bé bản đền, Cậu Bé Đồi Ngang
- Hàng Ngũ Hổ ông Lốt: Tức là năm ông hổ tượng trưng ngũ hành, và Lốt (Thuồng Luồng)
Ngoài ra cũng có nhiều vị khác được hát văn ca ngợi, và có hầu một số vị Chúa bà bản cảnh như Chúa Thác Bờ, Chúa Bà Năm Phuơng vv... Các thần linh kể trên là các thần linh phổ biến nhất, được đông đảo con nhang đệ tử của Đạo Mẫu công nhận thờ phụng, ngoài ra còn một số vị khác ở địa phương, cũng được đưa vào hầu bóng, thường là các Cô bé.
Thờ Mẫu ở Miền Trung
Dạng thức thờ Mẫu này chủ yếu ở khu vực nam Trung bộ, đặc trưng cơ bản của dạng thức thờ Mẫu ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu không có sự hiện diện của mẫu Tam phủ, Tứ phủ mà chỉ có hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần. Hình thức thờ Nữ thần như thờ Tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành và hình thức thờ Thánh Mẫu như thờ Thiên Y A Na, Po Nagar
Phật Giáo là một tín ngưỡng dân gian của Huế, tích hợp Đạo giáo Trung Hoa đã hợp hóa với tín ngưỡng thờ Mẫu và nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác của người Việt. Sự ra đời của tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo ở Huế xuất phát từ sự gắn kết của Hội Sơn Nam với ngôi điện Huệ Nam thời Nguyễn. Hội Sơn Nam là những người dân từ Nam Định di cư vào Huế từ thời tiền Nguyễn. Tín ngưỡng đặc trưng của hội này là tín ngưỡng thờ Mẫu kết hợp với việc thờ Đạo giáo đã hợp hóa. Còn Huệ Nam điện vốn là ngôi đền thờ PoNagar của người Chăm. Tiếp nhận từ người Chăm một di tích tôn giáo độc đáo, người Việt đã “bản địa hóa” nữ thần PoNagar thành nữ thần Thiên Y A Na, tôn làm "thượng đẳng thần".
Thờ Mẫu ở Miền Nam
So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được giải thích với nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hoá mà còn cả trong tín ngưỡng
Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh nương, Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,...và những Mẫu thần được thờ phụng như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Hậu,...
Các nơi thờ Mẫu tiêu biểu
- Hà Nội: Phủ Tây Hồ, Đền Quan Tam Phủ, đền Rừng, đền Lừ, đền Sét, đền An Thọ, đền Bà Kiệu, đền Liên Hoa, đền Lưu Phái, Minh Ngự Lâu (Thanh Trì), cụm đền Đại Lộ, đền Sở, đền Dầm (Thường Tín).
- Ninh Bình: Đền Dâu, đền Quán Cháo, phủ Đồi Ngang, phủ Sòng Xanh, phủ Châu Sơn, đền Cô Đôi Thượng Ngàn, đền Vân Thị, đền Sầy, chùa Bái Đính cổ, đền Quèn Thạch, đền Thung Lá, đền Mẫu Thượng...
- Nam Định: Phủ Dầy (huyện Vụ Bản), Phủ Quảng Cung (Xã Yên Đồng, huyện Ý Yên), Phủ Nấp.
- Hà Nam: Đền Lảnh Giang (Duy Tiên), đền Bà Vũ, đền Mẫu Cửu Tỉnh, miếu Bà Đặng Xá, miếu Hạ Đồng Lạc.
- Thái Bình: Đền Đồng Bằng thờ Vua Cha Bát Hải, Đền Hưng Long thờ Quan Hoàng Bơ, Đền Thánh Mẫu thờ Đinh Triều Hoàng Hậu.
- Hải Dương: Đền Đoan (Ninh Giang), Đền thờ quan Tuần Tranh, đền cổ Đông Giang Linh Từ (Trương Mỹ - TPHD), đền mẫu Kinh Câu (Tứ Kỳ) và đền Mẫu Sinh, đền Gốm, đền Dím, đền Cối Xuyên.
- Hưng Yên: Đền Mẫu Hưng Yên, đền Thiên Hậu, đền Ghênh Văn Lâm, đền Bảo Châu, đền Mẫu Ba Đông, Đền Xích Đằng, Đền Đậu An...
- Hải Phòng: Phủ Thượng Đoạn, Đền Quan Đệ Tứ, Đền Long Sơn- Cô Chín Suối Rồng, Đền Tiên Nga, Đền Tam Kỳ, Đền Nghè...
- Vĩnh Phúc: Đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên, Đền Chân Suối, Đền bà chúa thượng ngàn, Đền chúa Mán -Đông Hội, Đền Thanh Lanh.
- Bắc Giang: Đền Công Đồng Suối Mỡ, đền Từ Mận, đền Đà Hy, đền Phủ, đền má, đền bà chúa kho thanh bình, phủ doãn, điện sơn linh, đền chúa nguyệt hồ, phủ bắc hà, đền cô chín thượng, đền ông hoàng bảy thượng thiên.
- Phú Thọ: Đền Tam Giang, Đền thờ Tam tòa Thánh Mẫu.
- Lạng Sơn: Đền Mẫu Sơn, Đền Công Đồng Bắc Lệ, Đền Mẫu Đồng Đăng, đền Mẫu Thượng Ngàn, Đền Suối Lân, Đền Giám Sát, Đền Chầu Lục, Đền Đồng Mỏ, Đền Đèo Kẻng, Đền Suối Ngang, Đền Chúa Cà Phê, Đền Kỳ Cùng.
- Hòa Bình: Đền Bồng Lai, đền Mẫu Thác Bờ, đền đầm đa.
- Lào Cai: Đền Bảo Hà, Đền Cô Tân An, đền Đôi cô Cam Đường
- Yên Bái: Đền Đông Cuông, Đền Tuần Quán.
- Tuyên Quang: đền Ghềnh Quýt, đền Pha Lô, đền Đồng Xuân, đền Cảnh Xanh, đền Mẫu Ỷ La, đền Lương Quán, đền Mỏ Than, đền Lâm Sơn, đền Quang Kiều, đền Cấm, đền Ba Khuôn và đền Minh Lương.
- Thanh Hóa: Đền Sòng Sơn, Đền Chín Giếng, Đền Phố Cát, Đền Rồng, Đền Nước, Đền Phủ Mỗ, Đền Mẫu Phong Mục, Đền Hàn Sơn, Đền Cây Thị, Đền Ba Bông,...
- Nghệ An: Đền thờ ông Hoàng Mười, đền Hồng Sơn, đền Cửa, đền Ngọc Điền, đền Pu Nhạ Thầu.
- Hà Tĩnh: Đền thờ ông Hoàng Mười, đền Nước Lạt, Miếu Chai (Thạch Đài), đền Văn Sơn (Thạch Đỉnh).
- Thừa Thiên Huế: Điện Hòn Chén.
- Thành phố Hồ Chí Minh: Đền Mẫu, đền Đằng Giang, đền Chầu Lục, Đền chầu mười, Đền Sòng Sơn.